BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU THỦY NGÂN TẠI MỘT SỐ NHÀ MÁY NHIỆT ĐIỆN ĐỐT THAN CỦA VIỆT NAM
Nhà máy nhiệt điện (NMNĐ)đốt than chiếm vai trò quan trọng trong cơ cấu nguồn điện của Việt Nam, hiện sử dụng chủ yếu nguồn than trong nước. Bên cạnh việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, nhiệt điện than cũng tiềm ẩn nhiều vấn đề môi trường nếu không được quản lý và kiểm soát tốt liên quan khí thải, nước thải, chất thải rắn (xỉ và tro bay). Tính đến nay, đã có 19 NMNĐ đốt than đang hoạt động ổn định, sử dụng phổ biến 02 loại công nghệ lò hơi là công nghệ lò than phun (PC) và công nghệ lò tầng sôi tuần hoàn (CFB) trong đóPC là chủ yếu (12/19 nhà máy với công suất lắp đặt là 9779MW/12.509MW).Các NMNĐ đốt than của Việt Nam hiện thiết kế để sử dụng nguồn than trong nước - loại than antracide. Loại than này tuy có hàm lượng thủy ngân thấp hơn so với các loại than bùn, than nâu (nguyên liệuchính của ngành nhiệt điện các nước Mỹ, Châu Âu) nhưng là thành phần không thể loại trừ khi nhắc đến nhiên liệu hóa thạch. Kết quả nghiên cứu hàm lượng thủy ngân trong than nguyên liệu sử dụng tại 04 NMNĐ khảo sát năm 2016 (Uông Bímở rộng 2 -PC, Quảng Ninh-PC, Cao Ngạn-CFB, Mông Dương 1-CFB)cho thấy giá trị này dao động từ 0,12-0,82mg/kg, phụ thuộc nhiều vào nguồn gốc các mỏ.Sau quá trình đốt cháy, thủy ngân tập trung phân bố phát tán chủ yếu trong pha hơi của khí thải (so sánh tương quan với bụi, tro, xỉ). Vì vậy, việc kiểm soát thủy ngân tại các NMNĐ cần tập trung vào khí thải thay vì những e ngại đối với vấn đề tro, xỉ.