ĐẶC ĐIỂM CỔ SINH THÁI VÀ PHÂN BỐ CỦA HOÁ THẠCH RĂNG NÓN, VỎ NÓN TRONG CÁC TRẦM TÍCH D3-C1, Ở MỘT SỐ VÙNG THUỘC BẮC BỘ
Trong trầm tích Dị-C, ở Bắc Bộ đã phát hiện nhiều nhóm hoá thạch, trong sô đó các
hoá thạch Răng nón (Conodonta) và vỏ nón (Tentaculites) có một vị trí quan trọng. Chúng
có ý nghĩa địa tầng tót và được nghiên cứu ngày càng chi tiết.
Các hoá thạch Răng nón thuộc các giông Palmatolepis và Polygnathous, Ancyrodella,
Siphonodella và các hoá thạch vỏ nón thuộc họ Nowakiidae đê cập trong bài báo này được
coi là di tích của những sinh vật biển khơi (pelagic) điển hình, ứng với vùng biển sâu. Nơi
tập trung các hoá thạch kê trên thường rất hiếm hoặc hoàn toàn vắng mặt hoá thạch sinh
vật bám đáy như San hô, Tay cuộn, Chân rìu v.v... ó Bắc Bộ, các trầm tích Da-Ci chứa Răng
nón và vỏ nón thuộc kiểu tướng nước sâu có thành phần carbonat, silic và lục nguyên - silic
là chủ yếu. Căn cứ vào đặc điểm trầm tích và diện phân bo”, có thể thấy chúng được thành
tạo trong các bồn nước sâu, cũng có thể là những máng nước sâu nội thềm. Giữa chúng có
thê phân biệt một sô nhóm đá điên hình sau đây